Người theo dõi

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2020

Vài nét cơ bản của quan hệ Trung - Nga trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI

Hai thập niên đầu thế kỉ XXI vừa qua, thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng, cục diện toàn cầu có những thay đổi nhanh chóng với sự vươn lên của nhiều cường quốc mới. Với tư cách là hai trong số năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, mối quan hệ Trung Quốc - Nga có tác động rất lớn tới cục diện toàn cầu. Và mối quan hệ này đã có những chuyển biến rất rõ nét gắn liền với những biến động của tình hình thế giới, đặc biệt là quá trình xây dựng một trật tự thế giới mới nhằm loại bỏ vị thế số một của Hoa Kỳ.
Định hướng đối ngoại và nhu cầu của hai nước
Sau Chiến tranh lạnh, các quốc gia trên thế giới đều tập trung toàn lực cho việc phát triển kinh tế, xu thế hợp tác là chủ đạo. Nước Nga dưới thời Tổng thống Putin đã chuyển hướng mạnh mẽ sang “chiến lược Á-Âu thay” vì “định hướng Đại Tây Dương” như thời kỳ của hai người tiền nhiệm. Với Trung Quốc, về cơ bản đây vẫn là giai đoạn “giấu mình chờ thời”, tập trung phát triển trở thành một siêu cường mới của thế giới.
Với những định hướng đó, cả Trung Quốc và Nga đều có rất nhiều thế mạnh mà phía còn lại đang cần tranh thủ hợp tác. Trung Quốc có một thị trường lớn, nhu cầu nhập khẩu ngày càng gia tăng nhanh chóng. Nga có nguồn nguyên liệu, năng lượng dồi dào, cùng với khoa học kĩ thuật phát triển, đặc biệt là khoa học quân sự. Cả hai đều có tiếng nói trong các vấn đề quốc tế. Do vậy, về cơ bản, những thế mạnh của quốc gia này sẽ góp phần khỏa lấp các điểm còn hạn chế của quốc gia kia. Đây là mối quan hệ “cộng sinh” nước lớn, hợp tác cùng có lợi điển hình trong thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh .
Chuyển biến trong quan hệ Trung Quốc - Nga trên các lĩnh vực chủ yếu
Quan hệ Trung Quốc và Nga trong thế kỉ XXI được đặt nền móng từ năm 2001 khi hai nước đã ký với nhau Hiệp định láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác. Thời điểm này, Bộ Ngoại giao Nga đánh giá “đây là thời kỳ tốt đẹp nhất trong lịch sử hơn 300 năm quan hệ đầy những thăng trầm, phức tạp”[1]. Hai mươi năm qua, nếu xem xét riêng trên từng lĩnh vực, vấn đề có thể được chia thành nhiều giai đoạn phát triển với những đặc trưng riêng của bối cảnh lịch sử. Tuy nhiên, xét về tổng thể, có thể chia mối quan hệ song phương này thành hai giai đoạn lớn: từ đầu thế kỉ XXI đến năm 2014 và từ năm 2014 cho đến nay. Bước ngoặt được tạo ra từ hai yếu tố cơ bản: một là, diễn biến quan hệ Nga và phương Tây; hai là, sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc. Quá trình hợp tác Trung Quốc - Nga trên các lĩnh vực đều có những thay đổi không những về lượng mà còn về chất sau các sự biến trong năm 2014 này. Có lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có lĩnh vực không còn được chú trọng.
Trên lĩnh vực kinh tế
         Mặc dù là hai quốc gia láng giềng có nhiều thế mạnh kinh tế, song quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Nga chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và phát triển không đồng đều trong hai thập niên đầu thế kỉ XXI mặc dù tổng kim ngạch thương mại của hai nước đã tăng gấp 5 lần từ năm 2003 đến năm 2014 (biểu đồ). Dưới tác động tiêu cực của quan hệ Nga - phương Tây sau sự kiện bán đảo Crimea trở về lãnh thổ Nga, nước này đã buộc phải tái cấu trúc lại nền kinh tế, kiến thương mại của Nga với toàn cầu sụt giảm mạnh. Cần nói thêm rằng, trước năm 2014, thị trường ưu tiên hàng đầu của Nga vẫn là châu Âu. Căng thẳng trong quan hệ Nga - phương Tây tạo thuận lợi cho Nga chuyển hướng sang thị trường Trung Quốc. Mặc dù thương mại Trung Quốc - Nga trong năm 2015 đã giảm 27,8%[2], nhưng tình trạng này nhanh chóng được cải thiện và phát triển sau khi nước này tái cấu trúc lại nền kinh tế.
Kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc - Nga 2003-2014
Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc, 2015.
Đến năm 2018, kim ngạch thương mại hai nước đã tăng trưởng đến 107 tỷ USD[3], con số này sẽ còn gia tăng khi từ năm 2019, Nga sẽ chính thức vận hành đường ống cung cấp khí đốt cho Trung Quốc theo bản hợp đồng trị giá 400 tỷ USD trong 30 năm được ký vào năm 2014. Hai nước cũng đã đặt mục tiêu nâng tổng kim ngạch thương mại song phương lên mức 200 tỷ USD vào năm 2024, thúc đẩy tăng cường đầu tư FDI hai phía. Đồng thời, Trung Quốc và Nga đang cùng nhau hợp tác làm giảm vị thế toàn cầu của đồng Đô la. Cả hai đều tiên phong cổ vũ hoạt động giao dịch thương mại quốc tế bằng các đồng tiền nội tệ thay thế cho Đô la. Đây sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế Trung - Nga ngày càng phát triển sâu sắc.
Hợp tác chính trị
Quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và Nga diễn ra tương đối thực dụng, tuy vẫn tồn tại sự nghi kị lẫn nhau, nhưng cả hai đều cùng nhau đạt được nhiều đồng thuận trong các vấn đề quốc tế. Sau Hiệp định láng giềng thân thiện, hữu nghị và hợp tác năm 2001, hai nước tiếp tục ký với nhau Hiệp định Biên giới sau 40 năm đàm phán vào năm 2005, hoàn thành việc cắm mốc biên giới và nỗ lực xây dựng đường biên giới chung dài 4.300km trở thành khu vực láng giềng hòa bình thân thiệt và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân[4]. Từ đây, lòng tin giữa hai nước đã được cải thiện đáng kể.
Trước những áp lực từ phía Hoa Kỳ, cả Trung Quốc và Nga đều nhận thấy cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau để đảm bảo lợi ích quốc gia của mình. Tuy nhiên, mối quan hệ chính trị giữa hai nước được xây dựng trên quan điểm “kẻ thù của kẻ thù là bạn” chứ không được xây dựng trên nền tảng sự tin cậy truyền thống. Về cơ bản, gắn kết chính trị giữa Trung Quốc và Nga là không bền, có thể thay đổi khi tương quan quyền lực toàn cầu có sự thay đổi.
Mối nghi kị lớn nhất đối với Nga hiện nay là Trung Quốc đang ngày càng xâm nhập, gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới khu vực Trung Á. Bằng sức mạnh kinh tế của mình, Trung Quốc tỏ ra hào phóng khi chi mạnh tay các khoản tài trợ, đầu tư cho các nước Trung Á, nơi được coi là khu vực lợi ích sống còn đối với nước Nga.Việc để Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng ở Trung Á sẽ là tạo ra sự bất an không nhỏ đối với Nga. Để có thể tìm được tiếng nói chung giữa hai nước tại khu vực nhạy cảm này, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) được thành lập nhằm thúc đẩy hợp tác đa phương lấy quan hệ song phương Trung - Nga làm trụ cột. Trung Quốc quan tâm đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế, Nga quan tâm tới hợp tác đảm bảo tình hình an ninh khu vực. SCO giúp đã giải quyết hài hòa các lợi ích của mỗi bên. 
Hợp tác quốc phòng
Với Trung Quốc, để có thể thực hiện được tham vọng trở thành một siêu cường toàn diện, quá trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Trung Hoa không thể không tăng cường hợp tác với Nga. Hầu hết trang thiết bị vũ khí của Trung Quốc hiện nay có nguồn gốc, nền tảng kĩ thuật từ Nga. Tính đến năm 2009, Trung Quốc vẫn là quốc gia nhập khẩu vũ khí lớn nhất từ Nga, chiếm tỉ trọng lên tới 35% lượng vũ khí xuất khẩu của Nga[5]. Tuy nhiên, sau năm 2009 đến nay, nhập khẩu vũ khí của Trung Quốc từ Nga giảm mạnh, chỉ chiếm tỉ trọng 12% giai đoạn 2009-2013 và 14% giai đoạn 2014-2018[6].
Trung Quốc đã đầu tư rất mạnh cho việc phát triển khoa học kĩ thuật quân sự dựa trên công nghệ quân sự nước ngoài, đặc biệt là Nga. Khi nước này có đủ khả năng sao chép công nghệ, tự phát triển các thế hệ vũ khí trang bị của riêng mình, việc nhập khẩu vũ khí từ bên ngoài giảm mạnh. Trung Quốc chỉ còn tập trung quan tâm tới vào các loại vũ khí thế hệ mới, công nghệ mới của thế giới. Rất dễ thấy trong biên chế Quân đội nhân dân Trung Hoa các loại vũ khí trang bị sao chép từ công nghệ quân sự của Nga, như: xe tăng Type 59 được sản xuất dựa trên nguyên mẫu xe tăng T-54 của Nga; máy bay tiêm kích thế hệ III (theo phân định của Trung Quốc) J-10 và J-11B dựa trên cơ sở máy bay tiêm kích hạng nặng thế hệ IV Su-27 của Nga; máy bay tiêm kích hạm J-15 dựa trên cơ sở công nghệ của máy bay tiêm kích hạm Su-33 của Nga; máy bay tiêm kích J-16 được sản xuất dựa trên cơ sở máy bay tiêm kích Su-30MK2; hệ thống tên lửa phòng không HQ-9 được phát triển dựa theo hệ thống phòng không S-300 PMU1 và S-300PMU2 của Nga… Có thể thấy, công nghệ quân sự Nga hiện hữu rất phổ biến trong biên chế Quân đội nhân dân Trung Hoa. Điều này cũng trở thành một vấn đề tiêu cực trong quan hệ quốc phòng hai nước.
Mặt khác, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đang gia tăng với tốc độ cao, song hành với tốc độ phát triển kinh tế của họ. Từ năm 2001 đến năm 2018, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã tăng từ 49,8 tỷ USD lên tới 250 tỷ USD[7]. Trung Quốc trở thành quốc gia có sức mạnh quốc phòng mạnh thứ 3 trên thế giới sau (Mỹ và Nga). Việc xuất hiện một thế lực hùng mạnh ở ngay sát biên giới sẽ trở thành một mối đe dọa cho Nga trong tương lai không xa. Trên thực tế, với quá trình hiện đại hóa nhanh chóng trên quy mô lớn chưa từng thấy trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, Trung Quốc hoàn toàn có thể vượt qua Nga trên nhiều lĩnh vực quân sự trong tương lai gần. Trung Quốc lúc này sẽ không chỉ là nỗi bất an lớn với các nước trung bình và yếu ở khu vực mà ngay cả các siêu cường quân sự như Nga và Mỹ cũng không thể không đề phòng.
Bản chất và xu hướng phát triển của mối quan hệ Trung Quốc - Nga
Như đã trình bày, bản chất của mối quan hệ Trung Quốc là quan hệ “cộng sinh nước lớn”, hợp tác cùng có lợi dựa trên quan điểm “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Trên cơ sở đó, đây là mối quan hệ không bền vững, còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, nhưng do những yêu cầu bắt buộc của bối cảnh lịch sử đương đại, hai nước cần phải hợp tác với nhau để đối phó với những thách thức chung. Trong tương lai gần, hai nước sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác vì những lợi ích ngắn hạn của họ.
Nhưng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc, không có gì đảm bảo khi nước này chính thức trở thành một siêu cường toàn diện của thế giới, họ sẽ tìm cách chung sống hòa bình với các quốc gia láng giềng, trong đó có Nga. Hơn nữa, khi cán cân quyền lực toàn cầu thay đổi theo hướng mất cân bằng, theo tự nhiên, hệ thống quan hệ quốc tế sẽ buộc phải tự điều chỉnh, sự điều chỉnh đó có thể kéo theo sự bất ổn trong quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia khác. Thời kỳ “trăng mật” trong quan hệ Trung - Nga có thể sẽ chấm dứt như những gì đã từng xảy ra trong thập niên 60 của thế kỉ XX.
Tác giả: Hoàng Hải, Cử nhân Khoa học Lịch sử



[1] Hà Mỹ Hương (2009), Nước Nga thời Hậu Xô Viết qua những biến thiên của lịch sử, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, tr. 273. 
[2] Silvana Malle (2017), “Russia and China in the 21st century. Moving towards cooperative behaviour”, Journal of Eurasian Studies, Volume 8, Issue 2, p. 139. 
[3] Holly Ellyatt (2019), Are Russia and China the best of friends now? It’s complicated, analysts say, https://www.cnbc.com/2019/09/27/russia-and-chinas-relationship--how-deep-does-it-go.html, truy cập ngày: 3/1/2020.
[4] Phạm Minh Sơn (Chủ biên, 2008), Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 91.
[5] SIPRI (2010), Trends in international arms transfers 2009, Solna, Stockholm, Sweden, p.4.
[6] SIPRI (2014), Trends in international arms transfers 2003, Solna, Stockholm, Sweden, p.2 & SIPRI (2019), Trends in international arms transfers 2018, Solna, Stockholm, Sweden, p.2.
[7] SIPRI (2019), Data for all countries from 1988–2018 in constant (2017) USD, Solna, Stockholm, Sweden. (tác giả tổng hợp).




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét