Dưới thời cầm quyền của Thủ tướng Shinzo Abe (nghiên cứu trong
giai đoạn từ năm 2012 đến nay), Nhật
Bản và Trung Quốc luôn cố gắng thúc đẩy trao đổi quốc phòng với nhau, tuy vậy
quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc trên lĩnh vực này vẫn còn rất nhiều khó khăn,
vướng mắc.
Nếu không kể tới Mỹ là đồng minh
số một của Nhật Bản, Sách Trắng
Quốc phòng Nhật Bản xuất bản trong các năm nắm quyền của Thủ tướng Shinzo Abe
từ năm 2012 đến năm 2017 đều
xếp Trung Quốc vào chủ thể ưu tiên thứ tư (sau Australia, Hàn Quốc và Ấn Độ).
Nhưng rõ ràng, quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc không có được sự tin cậy cần
thiết bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, ngoài các nguyên nhân bên trong giữa hai
quốc gia này như vấn đề tranh chấp lãnh thổ, cạnh tranh lợi ích địa chiến lược
hay hệ lụy từ quá khứ mà còn xuất phát từ nhân tố bên ngoài. Mỹ là yếu tố đặc
biệt quan trọng khiến quan hệ an ninh, quốc phòng Nhật Bản - Trung Quốc khó có
thể được điều chỉnh theo đúng mong muốn của Nhật Bản.
Để thực hiện chiến lược toàn cầu
nhằm duy trì vị thế số một thế giới, Mỹ đã thiết lập căn cứ quân sự trên khắp
thế giới tại lãnh thổ các nước đồng minh. Ở Châu Á, Nhật Bản là quốc gia đồng
minh quan trọng nhất, nằm dưới ô bảo trợ của siêu cường này. Rải rác trên khắp
lãnh thổ Nhật Bản, Mỹ đã thiết lập hàng loạt các căn cứ quân sự [1]. Các căn cứ
này không chỉ nhằm mục đích kiểm soát tình hình trên bán đảo Triều Tiên mà còn
trực tiếp phục vụ mục đích kiềm chế Nga và Trung Quốc, gia tăng sự hiện diện
của Mỹ tại Châu Á - Thái Bình Dương. Điều đó khiến ngoại giao Nhật Bản chịu ảnh
hưởng lớn trong quan hệ với hai cường quốc láng giềng. Trong bối cảnh Trung
Quốc đang thực hiện tham vọng trở thành một siêu cường biển, họ không thể tỏ ra
hài lòng khi luôn có mối đe dọa thường trực từ phía Nhật Bản.
Ngày 23 tháng 11 năm 2013, Bộ
Quốc phòng Trung Quốc công bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên vùng biển
Hoa Đông, cụ thể là phạm vi không phận giữa sáu điểm: 34 độ 11 phút vĩ độ bắc,
121 độ 47 phút kinh độ đông; 33 độ 11 phút vĩ độ bắc, 125 độ 00 phút kinh độ
đông; 31 độ 00 phút vĩ độ bắc 128 độ 20 phút kinh độ đông; 25 độ 38 phút vĩ độ
bắc, 125 độ 00 phút kinh độ đông; 24 độ 45 phút vĩ độ bắc, 123 độ 00 phút kinh
độ đông; 26 độ 44 phút vĩ độ bắc và 120 độ 58 phút kinh độ đông, bao trùm lên
toàn bộ quần đảo Senkaku/Điếu Ngư [2].
Đồng thời,
Trung Quốc đưa ra bộ quy tắc nhận dạng máy bay ở Vùng nhận dạng phòng không
trên biển Đông Trung Quốc như sau:
1. Nhận dạng
bằng kế hoạch bay: Các máy bay ở trong Vùng nhận dạng phòng không biển Đông
Trung Quốc phải thông báo cho Bộ Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hoặc Tổng
cục Hàng không dân dụng về kế hoạch bay.
2. Nhận dạng bằng sóng radio: Các máy
bay phải giữ thông tin vô tuyến trực tuyến hai chiều, trả lời trong thời gian
sớm nhất và chính xác nhất đối với các yêu cầu nhận dạng của cơ quan quản lý
hành chính của vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông hoặc đơn vị được
ủy quyền.
3. Nhận dạng bằng bộ phát đáp: Các máy
bay có trang bị bộ phát đáp radar thứ cấp phải giữ bộ phát đáp hoạt động trong
suốt chuyến bay.
4. Nhận dạng biểu trưng:
Các máy bay trong Vùng nhận dạng phòng không biển Đông Trung Quốc phải thể hiện
rõ ràng quốc tịch và biểu trưng nhận dạng đăng ký theo các hiệp ước quốc tế có
liên quan [3].
Đối với Trung Quốc, việc thiết lập ADIZ nhằm các mục đích cụ thể:
Một là, tăng cường khả năng kiểm soát tuyến hàng hải qua biển Hoa Đông; Hai là,
tạo ra một phép thử cho Liên minh Nhật Bản - Mỹ, thách thức vị thế của liên
minh này tại khu vực Đông Bắc Á. Hành động của Trung Quốc ngay lập tức vấp phải
sự phản đối gay gắt của Nhật Bản và Hàn Quốc cùng nhiều quốc gia khác. Thủ tướng
Shinzo Abe đã lên án tuyên bố của Trung Quốc như một nỗ lực nguy hại nhằm thay
đổi hiện trạng tại Biển Hoa Đông thông qua ép buộc, ông cũng cho biết sẽ bảo vệ
vùng trời, vùng biển Nhật Bản, và yêu cầu Bắc Kinh “thu hồi bất kỳ biện pháp
nào có thể xâm phạm quyền tự do hàng không trong không phận quốc tế”[4].
Trên thực tế,
mặc dù việc Trung Quốc thiết lập ADIZ tại vùng biển Hoa Đông gây thêm căng thẳng
cho quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc không chỉ ở vùng biển mà còn mở rộng ra khắp
vùng trời tại khu vực này, tuy nhiên hiệu quả đạt được của ADIZ trong chiến lược
của Trung Quốc không quá nhiều do phản ứng của Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả
Australia. Do vậy, ADIZ của Trung Quốc chưa đủ để tạo ra một chuyển biến lớn
trong quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc vốn đã không quá tốt đẹp kể từ năm 2012. Sự
kiện này tuy làm căng thẳng thêm quan hệ giữa hai nước nhưng không đủ để đưa
tình trạng căng thẳng lên cao tới mức mất kiểm soát.
Trong hợp tác kĩ thuật, thương mại quân sự, hoạt động mua bán, trao đổi vũ khí, trang thiết bị quốc phòng giữa hai nước là hầu như không có dấu ấn nào đặc biệt. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu:
Một là, Quân đội Nhật Bản và Trung Quốc sử dụng hệ thống vũ khí, trang thiết bị quân sự hoàn toàn khác nhau. Nhật Bản trung thành với nền tảng kĩ thuật quân sự của Mỹ trong khi Trung Quốc có lượng lớn vũ khí có nguồn gốc từ Nga bên cạnh việc tự phát triển nền tảng khoa học quân sự dựa trên các yếu tố vay mượn, thậm chí là đánh cắp. Do đó, cơ sở kĩ thuật của hai bên cơ bản là không tương thích, hoạt động thương mại quốc phòng giữa Nhật Bản và Trung Quốc hầu như không khả thi.
Trong hợp tác kĩ thuật, thương mại quân sự, hoạt động mua bán, trao đổi vũ khí, trang thiết bị quốc phòng giữa hai nước là hầu như không có dấu ấn nào đặc biệt. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu:
Một là, Quân đội Nhật Bản và Trung Quốc sử dụng hệ thống vũ khí, trang thiết bị quân sự hoàn toàn khác nhau. Nhật Bản trung thành với nền tảng kĩ thuật quân sự của Mỹ trong khi Trung Quốc có lượng lớn vũ khí có nguồn gốc từ Nga bên cạnh việc tự phát triển nền tảng khoa học quân sự dựa trên các yếu tố vay mượn, thậm chí là đánh cắp. Do đó, cơ sở kĩ thuật của hai bên cơ bản là không tương thích, hoạt động thương mại quốc phòng giữa Nhật Bản và Trung Quốc hầu như không khả thi.
Hai là, lòng
tin cậy của hai nước dành cho nhau là không nhiều, Nhật Bản luôn có những đề
phòng trước định hướng phát triển của Trung Quốc. Do đó, phát triển thêm kĩ
thuật quân sự tương tự Trung Quốc không phải là điều mà các lãnh đạo cấp cao
Nhật Bản có thể đặt niềm tin.
Một điểm sáng trong quan hệ quốc
phòng, an ninh giữa Nhật Bản và Trung Quốc thời kì cầm quyền của Thủ tướng
Shinzo Abe có thể nói tới việc hai bên đã nỗ lực đưa ra nhiều sáng kiến nhằm
hạn chế, ngăn chặn các va chạm có khả năng xảy ra ở trên biển. Từ năm 2012,
Nhật Bản và Trung Quốc đã bắt đầu cố gắng xây dựng một cơ chế liên lạc hàng hải
gồm ba nội dung: Tổ chức các cuộc họp
thường niên giữa các chuyên gia; Thiết lập đường dây nóng giữa các cơ quan quốc
phòng cấp cao của Nhật Bản và Trung Quốc; Giữ liên lạc trực tiếp giữa các tàu
hải quân và máy bay [5]. Cho đến
hiện nay, hai quốc gia vẫn đang tiếp tục nỗ lực nhằm hiện thực hóa cơ chế hợp
tác này. Đáng chú ý, tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản - Trung Quốc
bên lề Hội nghị ADMM+ năm 2015, hai bên đã tiếp tục chia sẻ quan điểm về tầm
quan trọng của cơ chế hợp tác hàng hải cũng như thẳng thắn trao đổi các vấn đề
khác nhau của hai nước [6]. Năm 2015
cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ an ninh giữa Nhật Bản và
Trung Quốc khi cơ chế đối thoại an ninh song phương được nối lại sau 4 năm gián
đoạn [7].
Nhờ đó, việc trao đổi quan điểm về chính sách an ninh, quốc phòng cũng như các
vấn đề khác giữa Nhật Bản và Trung Quốc trở nên dễ dàng, cởi mở hơn.
Trước nguy cơ khủng bố có xu
hướng gia tăng trên toàn cầu, từ năm 2012 đến năm 2018, Nhật Bản - Trung Quốc -
Hàn Quốc đã 4 lần tổ chức Hội nghị Tham vấn chống khủng bố vào các năm 2012,
2015, 2016 và 2018 [8]. Sự kiện
được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2011, thời điểm này chỉ có Nhật Bản và Trung
Quốc đàm phán song phương, sau đó mở rộng thêm Hàn Quốc. Thông qua việc tham
vấn, chia sẻ các thông tin, kinh nghiệm, ba nước tích cực cùng nhau hợp tác đấu
tranh trước nguy cơ khủng bố đang có xu hướng gia tăng, gây mất an ninh ở khu
vực cũng như ở phạm vi toàn cầu. Cơ chế hợp tác mới này cũng góp phần nhất định
trong việc tăng cường lòng tin giữa hai quốc gia vốn còn rất nhiều vướng mắc
trong quan hệ song phương.
Có thể thấy, hợp tác trong lĩnh
vực an ninh, quốc phòng chưa thực sự phát triển tương xứng với các lĩnh vực
khác, nhưng Nhật Bản và Trung Quốc đang tỏ ra rất tích cực trao đổi quan điểm
của mình bằng cả hai cách trực tiếp và gián tiếp trên các diễn đàn đa phương mà
họ cùng tham gia, như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN
mở rộng (ADMM+), Hội nghị Thượng đỉnh An ninh Châu Á (Đối thoại Shangri La),
Hội nghị Thượng đỉnh ba bên (Nhật Bản - Trung Quốc - Hàn Quốc).
Dưới thời kỳ cầm quyền của Thủ
tướng Shinzo Abe (tập trung vào giai đoạn 2012 đến nay), quan hệ an ninh, quốc
phòng giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã đi “từ đóng băng đến phá
băng”. Cả hai đều cố gắng thúc đẩy quan hệ song phương, tuy nhiên vẫn còn
đó nhiều mâu thuẫn có thể gây ảnh hưởng tới tình hình an ninh khu vực. Quan hệ
Nhật Bản - Trung Quốc vốn đang có xu hướng dịch chuyển từ quan hệ giữa hai
cường quốc bình đẳng sang trạng thái bất bình đẳng hơn. Đó là mối quan hệ giữa
một cường quốc cũ với một siêu cường mới của thế giới. Điều đó đã, đang và sẽ
đặt ra nhiều thách thức mới cho Nhật Bản trong cách ứng phó với Trung Quốc
trong tương lai.
Lê Khánh Phương,
Hoàng Hải, Cử nhân Khoa học Lịch sử.
________________________________________
[1] Japan Ministry of Defense (2016), Defense of Japan 2016,
Tokyo, Japan, p. 254.
[2] Bộ Quốc phòng Trung Quốc (2013), Tuyên bố của Chính
phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc thiết lập Vùng nhận dạng phòng không
trên biển Đông Trung Quốc (tiếng Trung), http://www.mod.gov.cn/affair/2013-11/23/content_4476911.htm.
[3] Bộ Quốc phòng Trung Quốc (2013), Thông báo về quy tắc
nhận dạng máy bay trong Vùng nhận dạng phòng không trên biển Đông Trung Quốc
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (tiếng Trung), http://www.mod.gov.cn/affair/2013-11/23/content_4476910.htm.
[4] Michael J. Green (2013), China's Air Defense
Identification Zone: Impact on Regional Security, Center for Strategic
& International Studies, https://www.csis.org/analysis/chinas-air-defense-identification-zone-impact-regional-security.
[5] Japan Ministry of Defense (2014), Defense of Japan 2014,
Tokyo, Japan, p. 284.
[6] Japan Ministry of Defense (2016), Defense of Japan 2016,
Tokyo, Japan, p. 328.
[7] Đối thoại an ninh Nhật Bản - Trung Quốc được tổ chức lần đầu
tiên vào tháng 12 năm 1993 và lần cuối cùng được tổ chức trước khi quan hệ giữa
hai nước tạm rơi vào tình trạng đóng băng năm 2012 là vào tháng 1 năm 2011 tại
Bắc Kinh, Trung Quốc.
[8] Ministry of Foreign Affairs of Japan, Japan-China Relations
(Archives), https://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/china/archives.html.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét