Người theo dõi

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020

Chiến tranh biên giới phía Bắc: Trận phục kích ở Nà Cáp (Cao Bằng)

Trận phục kích ở Nà Cáp (Cao Bằng) do Đại đội 3, Tiểu đoàn Đặc công 45 của Bộ thực hiện, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1979 đã đạt hiệu suất chiến đấu cao, tiêu diệt nhiều sinh  lực, phá hủy nhiều vật chất chiến đấu của địch. Đảm bảo an toàn gần như tuyệt đối cho các chiến sĩ của ta.
Sơ đồ mô phỏng cuộc tấn công của Trung Quốc ngày 17/2/1979, Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 18/2/1979
Nguồn: Cục Huấn luyện chiến đấu, Bộ Tổng Tham mưu (1991), Kinh nghiệm chiến đấu ở biên giới phía Bắc (đại đội - tiểu đoàn), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 90-97.
Số hóa: Chu Hoàng
_____________________________________
I- TÌNH HÌNH CHUNG
A – ĐỊA HÌNH
Nà Cáp (0827) là vùng rừng núi nhưng độ cao thấp nằm bên trục đường số 3 ngoại vi thị xã Cao Bằng khoảng 2km về phía tây bắc. Nơi phục kích ở độ cao 200m là đoạn đường đào nên có nhiều chỗ vách đường (ta-luy) tương đối cao có thể bố trí hỏa lực từ trên bắn xuống và khi chặn được đầu cuối đội hình, địch khó đối phó.
Xung quanh Nà Cáp có nhiều nhà dân xen kẽ với một số cơ quan tỉnh đóng như trường Đảng, Công ty cầu đường, trạm máy kéo, lâm nghiệp… Nhà ở tập trung từ km3 đến km4, trồng nhiều cây ăn quả tương đối kín đáo địch khó quan sát, bộ đội tiện triển khai đội hình, giấu quân được giữ bí mật.
Đường số  từ thị xã Cao Bằng chạy sát bờ nam sông Bằng Giang nối với đường 166 ở ngã ba Bản Lầy lên Hòa An, Hà Quảng về phía tây bắc, từ ngã ba về phía tây nam là đường 3B qua Khâu Đồn về Nguyên Bình và Bắc Kạn.
Đoạn đường này ở giữa hai nơi địch chiếm giữ Khâu Đồn và thị xã Cao Bằng nên buộc địch phải sử dụng, để vận chuyển, tiếp tế, cơ động lực lượng…, ta có điều kiện tổ chức phục kích.
Sông Bằng Giang ở bắc đường 3; từ bờ sông đến đường trên đoạn Nà Đuốc (0826) – ngã ba Gia Cung (0728) rộng khoảng 200m đủ chiều sâu để ta bố trí đội hình chiến đấu.
Dân trong khu vực đã sơ tán. Ở Nà Tòng (0626) còn 25 quân dân và hai cán bộ đoàn thanh niên ở lại bám trụ địa phương chiến đấu.
Khu vực Nà Cáp (Cao Bằng) hiện nay
Tóm lại địa hình từ Nà Đuốc đến ngã ba Giang Cung (dài khoảng 2km, rộng khoảng 200m) có thể phục kích được thuận lợi, trong đó đoạn từ Nà Cáp đến ngã ba Gia Cung (dài khoảng 1km) tương đối bất ngờ hơn cả vì gần đường và chỉ cách thị xã khoảng 1,5km nên địch chủ quan song cần phải hết sức giữ bí mật khi chiếm lĩnh trận địa, giấu quân chờ địch và có biện pháp chặn địch tiếp viện.
B- TÌNH HÌNH ĐỊCH
Cuối tháng 2 năm 1979: sau khi đánh chiếm được Khâu Đồn (0723) (cách thị xã khoảng 7km về phía tây) và thị xã Cao Bằng, địch bị tiêu hao lực lượng phải dừng lại củng cố đồng thời đưa thê đội 2 vào để phát triển về phía đông và đông bắc đánh chiếm Trùng Khánh, Quảng Hòa, Trà Lĩnh.
Hàn ngày địch vẫn dùng xe vận tải chở quân, để tiếp tế từ phía biên giới theo đường 166 vào Cao Bằng và đồ vơ vét của ta chở về Trung Quốc. Xe đi theo đoàn từ 30-40 chiếc, có xe cảnh giới, tuần tiễu đi trước, mỗi xe cách nhau khoảng 50-70m, tốc độ không lớn vì đường ngoằn ngoèo, không tổ chức chốt đường, chưa bị đánh nên rất chủ quan ít đề phòng.
Khi bị phục kích có khả năng địch từ thị xã ra tăng viện theo hai đường nam và bắc sông, từ Khâu Đồn tới ít khả năng hơn. Ngoài ra còn dùng pháo binh, súng cối bắn chặn đội hình ta khi lui quân.
C- TÌNH HÌNH TA
1- Tiểu đoàn 45 đặc công của Bộ biên chế, trang bị chưa đầy đủ, đã chiến đấu một số trận đánh quân bành trướng tháng 2 năm 1979 đạt hiệu suất cao. Tiểu đoàn đang chuẩn bị đánh địch ở thị xã Cao Bằng, Nguyên Bình và trên trục đường 3B (Cao Bằng - Nguyên Bình).
Ngày 8 tháng 3 năm 1979: tiểu đoàn được giao nhiệm vụ đến Bản Sắng (0124) cách Nà Cáp khoảng 8km về phía tây nam, bắt liên lạc với dân quân, nắm tình hình tổ chức đánh địch trên đường 3 từ Khâu Đồn về thị xã Cao Bằng.
Ngày 9 tháng 3 năm 1979: Sau khi nhận nhiệm vụ, tiểu đoàn tiến hành cho bộ đội chuẩn bị ở vị trí tập kết còn cán bộ đi nghiên cứu địa hình gồm tiểu đoàn trưởng, hai đại đội trưởng (đại đội 1 và 3), mười chiến sĩ bảo vệ, thông tin. Chính trị viên tiểu đoàn ở lại đôn đốc chuẩn bị và sẵn sàng chỉ huy đơn vị cơ động.
12.00: Bộ binh đi trinh sát đến Nà Tòng, bắt liên lạc với dân quân nắm tình hình mọi mặt đặc biệt, quy luật đi lại trên đường của địch.
17.00: Lợi dụng trên đường không có địch, căn cứ vào dự kiến ý định chiến đấu, bộ phận trinh sát xuống đường nghiên cứu, xác định cụ thể ý định và kế hoạch chiến đấu đồng thời giao nhiệm vụ cho đại đội 3 (thiếu một trung đội) thực hiện trận đánh.
19.00: Bộ phận trinh sát về Nà Tòng; tiểu đoàn trưởng điện cho đơn vị hành quân từ Bản Sắng đến Nà Tòng (khoảng 6km).
2- Đại đội 3 (thiếu một trung đội) được giao nhiệm vụ:
Phục kích tiêu diệt địch cơ động trên đường số 3, đoạn từ km 3 (07261 – tây ngã ba Gia Cung) đến km 4 (07272 – đông Nà Cáp). Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, cơ động về Bản Sắng nhận nhiệm vụ chiến đấu tiếp. Khi chiến đấu được hỏa lực của một trung đội cối 82mm của tiểu đoàn (bố trí ở điểm cao 313) bắn kiềm chế địch ở đồi Thiên Văn (06283) phía tây thị xã.
3- Ý định phục kích của đại đội trưởng
- Trận địa phục kích:
Từ tây ngã ba Gia Cung đến trạm máy kéo (08264) dài khoảng 1000m đánh xe và bộ binh địch cơ động trên đường 3 từ hướng Khâu Đồn về Cao Bằng (là chủ yếu) hoặc ngược lại. Đoạn phục kích chủ yếu từ đông Công ty cầu đường (07273) đến tây trạm Lâm nghiệp (khoảng 700m). Chặn đầu ở ngã ba Gia Cung; khóa đuôi ở đông trạm máy kéo.
- Phương pháp tiêu diệt địch:
Phục kích gần đường; đồng loạt nổ súng, khóa chặt đầu đuôi tiêu diệt xe và bộ binh đi cùng; khi xung phong dùng lựu đạn, thủ pháo đánh gần, thực hành chia cắt tiêu diệt từng bộ phận và toàn bộ quân địch.
Sẵn sàng ngăn chặn và đánh trả địch ứng cứu từ hai phía vào trận địa.
- Tổ chức hỏa lực tiêu diệt địch:
Hỏa lực B.40, B.41 diệt xe đầu và xe cuối chặn đứng đội hình địch đồng thời diệt các xe khác bên trong trận địa, theo sát bộ binh chi viện kịp thời (đánh địch co cụm hoặc tới ứng cứu…).
Hỏa lực trung liên và AK tiêu diệt bộ binh theo xe, chi viện bộ binh ta xung phong ra mặt đường và chi viện kịp thời trong quá trình chiến đấu.
Hỏa lực cối 82mm của tiểu đoàn: khi bộ binh nổ súng tiến công, kiềm chế mục tiêu bên ngoài trận địa (phía thị xã Cao Bằng) theo quy định của tiểu đoàn. Sẵn sàng bắn chặn địch ứng cứu chi viện cho bộ binh diệt địch bên trong trận địa.
- Đội hình chiến đấu, sử dụng lực lượng:
Bộ phận chặn đầu: Một tiểu đội do một phó trung đội trưởng chỉ huy, bố trí ở bắc đường số 3 (cách đường khoảng 10-15m).
Bộ phận khóa đuôi: một tiểu đột do một phó trung đội trưởng trực tiếp chỉ huy, bố trí ở nam và bắc đường số 3.
Bộ phận chủ yếu: bốn tiểu đội do đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy bố trí ở bắc đường số 3.
Bộ phận đối diện: Không tổ chức riêng mà do tổ bố trí phía nam đường của tiểu đội khóa đuôi phụ trách.
Chặn viện từ hai đầu tới do hai tiểu đội chặn đầu, khóa đuôi phụ trách.
Vị trí chỉ huy: đại đội trưởng ở phía đông trạm Lâm nghiệp.

II. DIỄN BIẾN VÀ KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU
Ngày 10 tháng 3 năm 1979
A – DIỄN BIẾN
1 – Chiếm lĩnh trận địa
Từ 03.00 – 04.30: đại đội 3 cơ động từ Nà Tòng vào triển khai chiếm lĩnh trận địa thuận lợi, giữ được bí mật, an toàn. Sau khi vào vị trí, các bộ phận không đào công sự vì gần đường sợ lộ bí mật mà chỉ lợi dụng địa hình, địa vật làm vị trí bắn và ngụy trang kín đáo chờ địch.
Liên lạc giữa các bộ phận và với tiểu đoàn thông suốt (dùng vô tuyến điện phát tín hiệu theo quy ước).
2 – Nổ súng tiến công
- 07.15: một xe vận tải bịt kín mui từ Cao Bằng đi về hướng Khâu Đồn chạy qua trận địa không phát hiện được ta bố trí.
- 08.30: tám xe vận tải từ phía Khâu Đồn về Cao Bằng, trong đó có ba xe chở mỗi xe một khẩu 14,5mm và mười tên lính.
Ta không nổ súng vì lúc đó trời rất nhiều sương mù và vô tuyến điện phát nhầm mật hiệu. Số xe trên chạy thoát, ta vẫn giữ được bí mật.
- 08.50: Nghe nhiều tiếng động cơ từ hướng Khâu Đồn tới, ít phút sau có một xe tải chở 14 tên lính chạy vào, dừng lại kho của ta bên phía nam đường khuân đồ đạc. Sau đó 16 xe vận tải nữa đang tiến vào trận địa (mỗi xe cách nhau khoảng 60m), trong số đó có 10 xe chở đầy lính (khoảng trên 200 tên), hai xe chở hai dàn H.12, một xe thông tin và sáu xe chở đạn (tổng số 17 xe).
Sau khi báo cáo tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng ra lệnh các bộ phận giữ bí mật, sẵn sàng nổ súng.
- 08.55: Toàn bộ xe địch lọt vào trận địa, xe đầu đã tới gần ngã ba Gia Cung, đại đội trưởng phát lệnh tiến công.
Đồn chí Hưng ở bộ phận khóa đuôi dùng AK bắn một loạt chết tên lái xe sau cùng, xe đâm vào vệ đường, cùng lúc đó bộ phận chặn đầu và chủ yếu đồng loạt nổ súng áp đảo quân địch. Ngay từ loạt đạn đầu, B.40, B.41 bắn cháy một số xe trong đó có cả xe đi đầu đi cuối, đoàn xe ùn lại, số bộ binh sống sót nhảy từ trên xe xuống lúng túng tìm chỗ ẩn nấp, đội hình rối loạn không đối phó được.
Nắm thời cơ, đại đội trưởng ra lệnh dùng lựu đạn, thủ pháo và các loại hỏa lực khác từ trên cao bắn, ném xuống lòng đường, nhiều xe bốc cháy và nhiều lính bị chết, bị thương.
Cùng thời gian trên, trung đội súng cối 82mm bố trí ở 313 bắn 150 viên kiềm chế quân địch ở đồi Thiên Văn diệt được một số bộ binh.
- 09.25: Ta xung phong xuống đường phá hủy nốt số xe còn lại và tiêu diệt những tên còn chống cự. Sau 30 phút trận đánh kết thúc.
- 09.40: Đại đội 3 được lệnh nhanh chóng rời khỏi trận địa về Nà Tòng, sau đó về Nà Sắng an toàn.
B – KẾT QUẢ CHIẾN ĐẤU
- Địch: Bị diệt khoảng 300 tên (có kết quả do cối 82mm bắn vào đồi Thiên Văn).
Bị phá hủy: 17 xe vận tải, hai dàn H.12 và một số vũ khí bộ binh, khí tài thông tin, ba xe đạn.
- Ta: Bị thương hai đồng chí, thu một súng AK, tiêu thụ 17 viên đạn B.40, B.41.
320 thủ pháo và lựu đạn.
1.500 viên đạn K56.
150 quả đạn cối 82mm.

III – MỘT SỐ KINH NGHIỆM
1. Quá trình tiến công sâu vào đất ta đội hình địch càng xa hậu phương, nhu cầu bổ sung lực lượng, vật chất lớn nên nhất thiết quân địch phải tổ chức vận chuyển, tiếp tế…để đảm bảo cho lực lượng phía trước (quân tiến công và quân chốt giữ các trục đường…). Đó là thời cơ tốt cho ta sử dụng những phân đội, bộ phận chuyên trách của bộ binh, binh chủng phối hợp và dựa vào các làng, xã, căn cứ chiến đấu còn lại tổ chức những trận đánh ở phía sau bằng những phương pháp chiến đấu phù hợp (như phục kích, tập kích, phá giao thông…), gây cho địch tổn thất về sinh lực, phương tiện và suy yếu lực lượng, mất thế ổn định…tạo thời cơ đánh bại tiến công của chúng.
Khi cơ động địch tổ chức cảnh giới phía trước, hai bên sườn chu đáo, nhưng do địa hình rừng núi phức tạp không thể sục sạo rộng, không đủ lực lượng bảo vệ, chốt đường và khi chưa bị đánh, nơi gần căn cứ, sau khi đã sục sạo…thường xuất hiện tâm lý chủ quan ít đề phòng. Vì vậy ta có thể lợi dụng sơ hở tạo thời cơ tiêu diệt quân địch.
2. Nắm chắc thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, táo bạo nhưng phải có cơ sở chắc thắng. Tiểu đoàn 45 đã biết dựa vào lực lượng vũ trang tại chỗ còn bám trụ ở địa phương nắm chắc tình hình, quy luật hoạt động, hành quân, vận chuyển của địch, chọn trận địa phục kích, ở nơi bất ngờ nhất, xác định cách đánh, bố trí đội hình phù hợp, biết phát huy sở trường của bộ đội về kỹ năng đánh gần, ngụy trang giữ bí mật…, giành được thế chủ động, bất ngờ nên tuy sử dụng lực lượng ít hơn địch mà đạt hiệu suất chiến đấu cao.
3. Huấn luyện cán bộ và phân đội phải thiết thực cơ bản, vững chắc làm cơ sở vận dụng vào thực tế được linh hoạt. Trận phục kích ngày 10 tháng 3 năm 1979 từ lúc đi trinh sát đến lúc kết thúc tiến hành trong khoảng 22 giờ, bộ đội sẵn sàng chiến đấu cao, công tác tổ chức chiến đấu nhanh không bỏ lỡ thời cơ diệt địch; khi chiến đấu phân đội hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, thành thạo các hành động chiến đấu; cán bộ chỉ huy sâu sát linh hoạt, kịp thời…điều đó phản ánh kết quả của công tác huấn luyện có chất lượng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét